༄༅།། སྐྱབས་འགྲོ་སེམས་བསྐྱེད།
QUY Y VÀ PHÁT BỒ ĐỀ TÂM
ན་མོ་བུདྡྷཱ་ཡ། ན་མོ་དྷརྨཱ་ཡ། ན་མོ་སངྒྷཱཡ། ལན་གསུམ། ན་མོ་ཏྲི ་རཏྣ་ཡ།
NAMO BUDDHAYA, NAMO DHARMAYA, NAMO SANGHAYA
Con kính lễ Tam Bảo: Phật; Pháp, Lời Dạy của Ngài và Tăng Già (3 lần)
༄༅། སངས་རྒྱས་ཆོས་དང་ཚོགས་ཀྱི་མཆོག་རྣམས་ལ།།
བང་ཆུབ་བར་དུ་བདག་ནི་སྐྱབས་སུ་མཆི།།
བདག་གིས་ཆོས་ཉན་བགྱིད་པའི་བསོད་ནམས་ཀྱིས།།
༼བདག་གིས་སྦྱིན་སོགས་བགྱིས་པའི་བསོད་ནམས་ཀྱིས།།༽
འགྲོ་ལ་ཕན་ཕྱིར་སངས་རྒྱས་འགྲུབ་པར་ཤོག།། ལན་གསུམ།།
Con xin về nương tựa nơi Phật, Pháp, Chúng Trung Tôn,
Cho đến ngày viên mãn bồ đề
Nhờ công đức nghe Pháp và các hạnh khác
[Nhờ công đức bố thí và các hạnh khác]
Con nguyện tu thành Phật đạo vì lợi ích của tất cả chúng sinh (3 lần)
Ý NGHĨA CỦA TAM BẢO TRONG ĐẠO PHẬT LÀ GÌ?
Tam bảo là Phật, Pháp và Tăng già, cả ba đều quan trọng như nhau:
CON XIN QUY Y PHẬT,
CON XIN QUY Y PHÁP,
CON XIN QUY Y TĂNG.
ĐỨC PHẬT.
Đức Phật là hiện thân của một bậc tỉnh thức, rõ biết sự tự do, yên bình và từ bi trong nội tâm là không thể lay chuyển. Trong bối cảnh này, Đức Phật không chỉ biểu hiện là vị Thái tử lịch sử Tất Đạt Đa mà chúng ta quen thuộc, mà còn là tất cả những bậc thầy vĩ đại trong suốt giai đoạn người thể hiện năng lực trí tuệ và lòng từ bi đã làm thay đổi thế giới xung quanh họ. Đức Phật là biểu tượng của chân lý cao quý thứ ba (sự chấm dứt đau khổ) – thực sự có thể biết rõ sự kết thúc nỗi thống khổ và nỗ lực tìm ra một tâm giải thoát khỏi sự nhầm lẫn và đau khổ.
The Buddha is the personification of an awakened being, a person who knows unshakeable inner freedom, peace, and compassion. In this context, the Buddha represents not only the historical Siddhartha we are familiar with, but also all the great teachers throughout time who embody a depth of wisdom and compassion that changes the world around them. The Buddha is a symbol of the third noble truth (cessation)—that it is truly possible to know the end of anguish and struggle to discover a heart that is liberated from confusion and pain.
Đức Phật cũng chỉ ra tiềm năng thức tỉnh ở trong mỗi chúng ta, khuyến khích chúng ta tự tìm ra cho chính mình sự tự do giống như chư Phật từ xưa đến nay đã tìm thấy. Đức Phật là một biểu tượng của khả năng—་་khuyến khích chúng ta đừng tuyệt vọng mà hãy đi sâu vào tâm mình để tìm ra trí tuệ có thể chữa lành và giải thoát chúng ta.
The Buddha also points to the potential for awakening that lives in each of us. The Buddha encourages us to discover for ourselves the same freedom that buddhas throughout time have found. The Buddha is a symbol of possibility—encouraging us not to despair but to dive deeply into our hearts to find the wisdom that can heal and liberate us.
PHÁP.
Pháp là con đường dẫn đến sự chứng ngộ Phật tính của chúng ta, dạy cho chúng ta câu chuyện phổ quát về sự thay đổi, bất toại nguyện và vô ngã vận hành suốt cuộc đời của chúng ta và bộc lộ sự liên kết giữa chúng ta, vốn thường bị che mờ bởi ảo tưởng và sự sợ hãi.
The Dharma is the path that leads to the realization of our buddha nature. It teaches us the universal story of change, unsatisfactoriness, and non-self that runs through all of our lives. It reveals our interconnectedness, which is usually clouded by delusion and fear.
Phật pháp là những gì mà chúng ta thực hành khi chúng ta ngồi xuống với ý định buông bỏ, làm dịu đi những làn sóng kích động trong tâm mình, và hiểu điều gì là đúng thực. Khi chúng ta bắt đầu cuộc sống hàng ngày với sự cam kết không làm hại và bảo vệ hạnh phúc của mọi sinh vật là chúng ta đang thực hành Pháp. Khi chúng ta bố thí thời gian, sự quan tâm và yêu thương của mình, thì chúng ta là hiện thân của Pháp. Khi chúng ta phát tâm trung thực, quý trọng tâm trí trong sáng và gắn kết thế giới với sự tôn trọng và hiểu biết, chúng ta đang sống theo Phật pháp.
The Dharma is what we practice when we sit down with the intention to let go, to calm the waves of agitation in our hearts, and to understand what is true. When we go out into our day with the commitment to not harm and to protect the well-being of all living beings, we are practicing the dharma. When we are generous with our time, attention, and love, we embody the Dharma. When we resolve to be truthful, to treasure a clear mind, and to engage the world with respect and appreciation, we live the dharma.
TĂNG.
Có hai loại tăng đoàn: cao quý và bình thường. Tăng đoàn cao quý, những người nam và những người nữ đã chứng ngộ sự tự do vi diệu và sống tận tụy với đạo đức và trí tuệ. Các bậc Thánh bao gồm những người hiểu rõ sự tự do tương tự này khám phá các trạng thái tâm cần sự tuệ giác và hiểu biết… Tăng đoàn bình thường là những thành viên của cộng đồng tu tập của chúng ta.
There are two types of sangha: noble and ordinary. The noble Sangha, men and women who have realized a profound freedom and live deeply committed to ethics and wisdom. The Noble Ones include those who know this same freedom to explore states of mind that need insight and understanding… The ordinary sangha are members of our practice community.
Tam bảo là ba phần hoàn toàn đan xen vào nhau, nắm giữ trong đó toàn bộ giáo lý và con đường giải thoát. Chúng ta gọi Phật, Pháp, Tăng là Tam Bảo vì có giá trị sâu sắc và lâu dài, được nuôi dưỡng cùng nhau, và dẫn đến sự giải thoát không thể lay chuyển.
The three jewels is three parts that are completely interwoven. They hold within them the whole of the teaching and path of liberation. We call Buddha, Dharma, and Sangha the three jewels or treasures because they have profound and enduring value. Nurtured together, they lead to unshakeable liberation.
TẠI SAO CHÚNG TA NÊN QUY Y
Đức Phật thuyết (Kinh Pháp Cú [Dhammapada] v.190-192)
Ai quy y đức Phật,
chánh pháp và chư tăng,
ai dùng chánh tri kiến,
thấy được Bốn thánh đế.
Thấy khổ và khổ tập,
thấy sự khổ vượt qua,
thấy Đường thánh tám ngành,
đưa đến khổ não tận.
Thật quy y an ổn,
thật quy y tối thượng.
Có quy y như vậy,
mới thoát mọi khổ đau
“Người đã quy y Phật, Pháp và Tăng, thấm nhuần trí tuệ siêu việt Tứ Diệu Đế [của bậc Thánh]. *Đây quả thực là nơi nương tựa an toàn, đây là nơi nương tựa Tối thắng. Người mà nương tựa như vậy, được giải thoát khỏi mọi đau khổ.”
*Sự thật về đau khổ. Sự thật về nhân/duyên của đau khổ. Sự thật về sự giải thoát khỏi đau khổ. Sự thật về con đường hướng tới giải thoát đau khổ
“One who has gone for refuge to the Buddha, the Dharma and the Sangha, penetrates with transcendent wisdom the Four Noble Truths.* This indeed is the safe refuge, this is the refuge Supreme. Having gone to such a refuge, one is freed from all suffering.”
*Truth of suffering. Truth of causes/conditions for suffering. Truth of freedom from suffering. Truth of the way towards freedom of suffering.
Có ba loại Phật tử được gọi là ba phạm vi của chúng sinh và họ quy y vì những lý do khác nhau:
1) Chúng sinh ở phạm vi nhỏ hơn quy y vì mục đích mong muốn được sinh vào các cõi cao hơn.
2) Chúng sinh ở phạm vi trung bình quy y vì mong muốn thoát khỏi luân hồi.
3) Chúng sinh ở phạm vi cao hơn quy y vì cùng một mục đích mong muốn trở thành Phật để giúp đỡ tất cả chúng sinh.
There are three types of Buddhist which are called three scopes of beings and they take refuge for different reasons:
1) Smaller scopes of beings wish to be born in higher realms so that take refuge for that purpose.
2) Middle scopes of beings wish to be free from samsara so they take refuge for that.
3) Higher scopes of beings wish to become Buddha to help all the beings and for the same purpose they take refuge.
Mọi người đều nương tựa vào một điều gì đó, thường là trong các mối quan hệ, địa điểm hoặc hoạt động mang lại cho thân hoặc tâm trí cảm giác sự an toàn và được bảo vệ. Quy y không bảo vệ chúng ta khỏi những vấn đề trên thế giới, che chở chúng ta khỏi chiến tranh, nạn đói, bệnh tật, tai nạn và những khó khăn khác, mà thay vào đó cung cấp các công cụ để biến các chướng ngại thành ra những cơ hội.
Everyone takes refuge in something, often it’s in relationships, locations, or activities that offer the body or mind a sense of security and protection. Taking refuge doesn’t protect us from problems in the world. It doesn’t shield us from war, famine, illness, accidents, and other difficulties, rather it provides tools to transform obstacles into opportunities.
Quy y bên ngoài và Quy y bên trong.
Chúng ta thực hiện với hai loại quy y: bên ngoài và bên trong.
– Với sự quy y bên ngoài hay tương đối, chúng ta thấy Phật, Pháp và Tăng như ở bên ngoài chúng ta. Tính nhị nguyên này chắc chắn mang lại độ tin cậy cao hơn so với những quy y thông thường, nhưng với những lợi ích hạn chế. Chừng nào Đức Phật còn ở đâu đó ngoài trái tim và tâm trí của chúng ta, chúng ta sẽ không nhìn thấy vị Phật đích thực – sự trong sáng rỗng không của tánh giác [cái biết] thanh tịnh của chính chúng ta.
– Nơi nương tựa bên trong giúp chúng ta thực hiện bước nhảy vọt từ vị phật bên ngoài đến vị phật bên trong. Với sự quy y bên trong hay quy y tuyệt đối, tính nhị nguyên giữa bên ngoài và bên trong tan biến. Cuối cùng, chúng ta dựa vào chính mình, vào Phật tính của chính mình và vào những phẩm tính giác ngộ của chính mình. Sự thanh tịnh hóa là quá trình làm cho những phẩm chất này trở nên dễ tiếp cận hơn để chúng ta có thể hòa nhập chúng vào cuộc sống hàng ngày. Bằng thực hành, chúng ta nhận ra chính vị Phật mà chúng ta nương tựa trong chính mình. Đây là bản chất của thực hành, chúng ta quy y để được hạnh phúc hơn, thoát khỏi đau khổ và cảm thấy an toàn và ổn định hơn.
We work with two kinds of refuge: outer and inner.
- With outer or relative refuge, we see the Buddha, dharma, and sangha as being outside of ourselves. This duality definitely offers more reliability than conventional refuges, but with limited benefits. As long as the Buddha is somewhere other than in our own heart and mind, we won’t see the true buddha—the empty clarity of our own pure awareness.
- The inner refuge helps us make the leap from the buddha outside to the buddha inside. With inner or absolute refuge, the duality between outer and inner dissolves. Ultimately we rely on ourselves, on our own buddha nature, and on our own awakened qualities. Purification is the process of making these qualities more accessible so we can integrate them with our daily life. With practice, we recognize in ourselves the very buddha in whom we take refuge. This is the essence of practice, we take refuge to be happier, to be free from suffering, and to feel more secure and stable.
“Con xin về nương tựa nơi Phật, Pháp và Tăng Già”
Quy y Tam Bảo thể hiện mối liên hệ cơ bản nhất với Đạo Phật. Đối mặt với những hạn chế của luân hồi, chúng ta sẵn sàng cho một sự thay đổi. Chúng ta không thể từ bỏ ngay lập tức những cám dỗ của luân hồi, nhưng lời nguyện này giúp chúng ta vững vàng ý định, nhắc nhở chúng ta về điều gì là sự thật, cả trong thế giới lẫn trong chính chúng ta.
Taking refuge in the three jewels expresses the most fundamental connection to Buddhism. Having confronted the limitations of samsara, we are ready for a change. We cannot renounce the temptations of samsara all at once, but this vow helps steady our intentions. It reminds us of what is true, both in the world and in ourselves.
Nương tựa nơi Phật.
Ý nghĩa bên ngoài của việc quy y Đức Phật là nói đến Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, vị Phật lịch sử sống ở Ấn Độ. Chúng ta gọi ngài là người thức tỉnh, người đã vượt qua mọi nhị nguyên và khái niệm, vượt ra khỏi mọi sự nhầm lẫn về sắc và đau khổ. Sự giác ngộ và giáo lý của Ngài tiếp tục truyền bá cho tất cả các tông phái và thực hành của Đạo Phật. Tuy nhiên, chính Đức Phật đã quy y ai? Chúng ta biết rằng cha của Đức Phật, vua Tịnh Phạn [Suddhodana], đã tìm kiếm sự bảo vệ bằng quyền lực chính trị và địa vị xã hội. Chúng ta biết rằng những nỗ lực của nhà vua nhằm giữ con trai mình gắn bó với cuộc sống làm chủ gia đình bằng những cám dỗ giác quan đã không thành công. Vượt qua những người lính canh cung điện, thái tử Tất Đạt Đa [Siddhartha] bắt đầu cuộc sống của một người tìm kiếm, ẩn náu trong rừng và hang động, và với những vị thầy đã thành thạo các thực hành khổ hạnh. Nhưng cũng giống như ngài đã từ chối con đường của cha mình, sau sáu năm, ngài từ chối những khổ hạnh, cũng như các nghi lễ của giới tu sĩ Bà la môn cầm quyền. Khi thái tử Tất Đạt Đa ngồi xuống dưới cây bồ đề, ngài đã quy y chính mình. Dựa vào bản năng cũng như nhiều năm rèn luyện và trải nghiệm, ngài từ bỏ mọi tính chính thống, quyết tâm giải thoát tâm mình khỏi tận gốc rễ của đau khổ.
The outer meaning of taking refuge in the Buddha refers to Shakyamuni Buddha, the historical Buddha who lived in India. We call him the awakened one, the one who has gone beyond all dualities and concepts, beyond all forms of confusion and suffering. His enlightenment and his teachings continue to inform all Buddhist schools and practices. Yet in whom did the Buddha himself take refuge? We know that the Buddha’s father, King Suddhodana, sought protection in political power and social standing. We know that the king’s attempts to keep his son bound to the householder life through sensory enticements did not work. Slipping past the palace guards, Siddhartha embarked on the life of a seeker, taking refuge in forests and caves, and with teachers who had mastered the practices of asceticism. But just as he had rejected his father’s path, after six years he rejected the austerities, as well as the rituals of the ruling Brahman priesthood. When Siddhartha sat down under the bodhi tree, he took refuge in himself. Relying on instinct as well as years of training and experience, he abandoned every orthodoxy, determined to liberate his mind from the very roots of suffering.
Điều quan trọng là sử dụng hình mẫu nương tựa vào chính mình—và không lạm dụng nó. Chúng ta không thể bác bỏ lời dạy của Đức Phật dưới danh nghĩa tự chủ sáng tạo, và chúng ta không thể chỉ đi theo Đức Phật như vịt con đi theo mẹ. Chúng ta không loại bỏ niềm tin chân chính cũng như không đắm chìm trong niềm tin mù quáng. Nhưng chúng ta dựa vào thói quen thông thường của con người là đặt niềm tin vào những nguồn lực phi thường là đặt niềm tin vào những nguồn tài liệu đặc biệt và áp dụng Đức Phật – những lời dạy và tấm gương của ngài – để truyền cảm hứng cho chúng ta.
It’s important to use this model of self-reliance—and it’s important not to misuse it. We cannot dismiss the Buddha’s teachings in the name of creative autonomy, and we cannot just follow the Buddha like a baby duckling follows its mother. We neither discard genuine faith nor indulge in blind faith. But we draw on the ordinary human habit of placing trust in exceptional sources and use the Buddha—his teachings and example—to inspire us.
Khi ai đó mà chúng ta nhận ra là đặc biệt diễn thuyết, thì chúng ta lắng nghe với sự chú ý và tin tưởng cao độ. Những khuynh hướng tự nhiên này ban đầu hướng dẫn việc thực hành quy y của chúng ta. Chúng ta sử dụng hình ảnh, lời nói và hoạt động của các bậc giác ngộ để tăng cường lòng sùng mộ và khả năng tiếp thu của mình. Với những bậc giác ngộ trước mặt, chúng ta cúi lạy và tụng kinh với lòng nhiệt thành hơn so với việc chúng ta tưởng tượng những chúng sinh bình thường.
When someone that we identify as special speaks, we listen with heightened attention and trust. These natural tendencies initially direct our refuge practice. We use the images, words, and activities of enlightened beings to intensify our devotion and receptivity. With the enlightened beings before us, we bow and chant with more enthusiasm than if we imagine regular beings.
Chúng ta quy y theo sự hướng dẫn và lời dạy của Đức Phật, người hiện thân của tất cả các bậc giác ngộ. Chúng ta dùng vị Phật bên ngoài để quy y vị phật bên trong của mình. Ba phẩm tính vô biên, những phẩm tính giác ngộ mà một vị Phật biểu hiện là nhất thiết trí [toàn trí], tình yêu thương và lòng từ bi bao la, và hoạt động giác ngộ vô hạn. Khi chúng ta tôn kính chư Phật, chúng ta thừa nhận và đánh giá biểu hiện sự giác ngộ của các ngài. Hạt giống của những phẩm chất này tồn tại bên trong chúng ta được nuôi dưỡng thông qua sự tôn kính và lòng sùng mộ.
We take refuge in the guidance and words of the Buddha, who embodies all enlightened beings. We use the outer Buddha to take refuge in our inner buddha. The Three Boundless Qualities, the enlightened qualities that a buddha manifests are boundless wisdom, boundless love and compassion, and boundless enlightened activity. When we venerate the buddhas, we acknowledge and value their manifestation of enlightenment. The seeds of these qualities exist within us, but we cultivate them through veneration and devotion.
1. Nhất Thiết Trí.
Trí tuệ vô biên [toàn trí]có hai khía cạnh: tương đối và tuyệt đối. Trí tuệ tuyệt đối có nghĩa là sự chứng ngộ trực tiếp bản chất trống rỗng, hư ảo của mọi hiện tượng. Trí tuệ tương đối nhắc nhở chúng ta rằng Đức Phật không hoàn toàn “phân tâm” vào trong niết bàn và nghĩ rằng, “Mọi thứ đều tuyệt vời, không ai đau khổ, không có việc gì cho ta làm”. Trí tuệ tương đối có nghĩa là Đức Phật biết thực tại tương đối của chúng ta; ngài biết nỗi đau khổ của chúng ta, những rối loạn thần kinh và ảo tưởng của chúng ta, những nhầm lẫn, những phân biệt và những nhận thức bất tịnh của chúng ta. Từ ‘nhất thiết’ ở đây có nghĩa là không có gì ngoài nhận thức của một vị Phật.
Boundless wisdom has two aspects: relative and absolute. Absolute wisdom means the direct realization of the empty, illusory nature of all phenomena. Relative wisdom reminds us that the Buddha is not just “spacing out” in nirvana and thinking, “Everything is wonderful, no one is suffering, there is no work for me to do.” Relative wisdom means that the Buddha knows our relative reality; he knows our suffering, our neuroses and delusions, our confusions, concepts, and impure perceptions. The word boundless here means there is nothing beyond a buddha’s perception.
2. Tình Yêu Thương và Lòng Từ Bi Vô Hạn.
Giống như tình yêu thương vô bờ bến mà người mẹ dành cho đứa con duy nhất của mình, bà yêu con hơn cả bản thân mình. Đó là tình yêu vô hạn. Chúng ta giống như đứa con của Đức Phật. Tình yêu và lòng từ bi có thể bị giới hạn bởi các khái niệm; nhưng tình yêu vô lượng bao la tồn tại vượt ngoài khái niệm.
This is like the immeasurable love that a mother has for her only child. She loves the child more than she loves herself. It is limitless love. We are like the Buddha’s child. Love and compassion can be limited by concepts; immeasurable, boundless love exists beyond concepts.
3. Hoat Động Giác Ngộ Vô Hạn.
Diễn tả vô số cách mà Đức Phật đã giúp đỡ chúng ta. Tuy nhiên, mỗi ngày, vẫn có hàng triệu người phải chịu đựng thiên tai, khủng hoảng tài chính, vấn đề tình cảm, vấn đề tâm trí xáo động và dường như Đức Phật từ chối giúp đỡ. Chính Đức Phật đã nói rằng một vị Phật có thể cung cấp những điều kiện hoàn hảo để dập tắt khổ đau bằng cách soi sáng con đường chánh pháp. Nhưng trách nhiệm của chúng ta là phải tìm ra nguyên nhân khiến điều đó xảy ra. Đó là lý do tại sao chúng ta phải tu tập. Chư Phật luôn có mặt, nhưng chúng ta không phải lúc nào cũng cởi mở với những gì chư Phật ban tặng. Họ có thể mở cửa và chiếu ánh sáng vào, nhưng nếu chúng ta không bước qua cánh cửa đó thì chúng ta vẫn ở trong bóng tối.
This describes the limitless ways that the Buddha helps us. Still, every day, millions of people suffer from natural disasters, financial crises, romantic problems, monkey-mind problems, and it seems that the Buddha refuses to help. The Buddha himself said that a buddha could provide the perfect conditions for extinguishing dukkha by illuminating the path of dharma. But it’s our responsibility to provide the causes for that to happen. That’s why we practice. The buddhas are always available, but we are not always open to what they offer. They can open the door and shine the light, but if we don’t walk through that door, we remain in darkness.
Nương Tựa Nơi Chánh Pháp.
Mọi người đều có nghiệp riêng của mình để giải quyết. Không ai, kể cả Đức Phật, có thể thay đổi nghiệp của chúng ta. Chỉ có chúng ta mới có thể chuyển hóa nghiệp và tạo nghiệp của mình. Đức Phật không thể làm điều đó cho chúng ta, nhưng việc thực hành Pháp thì có thể giúp ích. Việc nhìn thấy những phẩm chất giác ngộ của chư Phật sẽ đưa chúng ta đến gần hơn với việc nhìn thấy những phẩm chất đó trong chính chúng ta. Bằng cách này, việc thực hành Pháp trở thành vai trò tích cực của chúng ta trong việc thay đổi nghiệp của chính mình. Để loại bỏ đau khổ, chúng ta cần có người bảo vệ tối thắng, đó là Pháp. Chính Giáo Pháp có thể thực sự cứu chúng ta khỏi luân hồi. Chỉ bằng cách đi theo con đường Phật Pháp – có nghĩa là thực hành/tu tập – chúng ta mới có thể phát triển khả năng tự chứng ngộ.
Everyone has their own karma to work out. No one, not even the Buddha, can change our karma. Only we can change our karma and make our karma. The Buddha cannot do that for us, but practicing dharma can. Seeing the enlightened qualities of the buddhas brings us closer to seeing those qualities in ourselves. In this way, practicing dharma becomes our active role in changing our own karma.
In order to eliminate suffering, we need the supreme protector, which is dharma. It is dharma that can really save us from samsara. Only by following the path of dharma—which means practice—can we develop self-realization.
Nương Tựa Nơi Tăng Già.
Có hai loại tăng đoàn: cao quý và bình thường. – Tăng Già [Tăng đoàn cao quý] đề cập đến các vị bồ tát, a la hán và các bậc thánh nhân khác đã đạt được sự chứng ngộ hiện tiền và nắm giữ dòng truyền thừa giáo lý trí tuệ. – Tăng đoàn bình thường là các thành viên của cộng đồng tu tập của chúng ta. Cả hai Tăng đoàn này đều đóng một vai trò quan trọng trong sự phát triển của chúng ta, tuy nhiên chúng ta chỉ quy y tăng già. Khi chúng ta vẫn còn trong luân hồi, điều quan trọng là nương tựa vào những gì vượt khỏi luân hồi, vượt trên sự thông thường. Chúng ta giữ định hướng của mình về những gì chúng ta mong muốn phát triển và cần phải kéo dài.
There are two types of sangha: noble and ordinary.
- The noble sangha refers to the bodhisattvas, arhats, and other sages who have attained direct realization and hold the lineage of wisdom teachings.
- The ordinary sangha are members of our practice community. Both types play a critical role in our development, yet we only take refuge in the noble sangha. While we are still in samsara, it’s important to take refuge in what goes beyond samsara, beyond ordinary. We keep our orientation toward what we aspire to grow into. We need to make the stretch.
Nói chung, mọi người có xu hướng giảm thiểu tầm quan trọng của tăng đoàn thông thường: Phật là chuyện lớn, pháp là chuyện lớn, và tăng đoàn là thứ phải chấp nhận. Tuy nhiên, trong tăng đoàn bình thường, tu sĩ hay cư sĩ, những khía cạnh gồ ghề nhất của sự kiêu ngạo và kiêu hãnh của chúng ta có thể được xoa dịu đi một chút. Làm thế nào lý tưởng Bồ Tát được giữ vững khi chúng ta thực sự tương tác với người khác? Những vấn đề trong tăng đoàn chắc chắn sẽ nảy sinh bởi vì chúng ta đang nói về những người chưa giác ngộ đang cố gắng hòa hợp với nhau. Ghen tị, cạnh tranh và giận dữ chắc chắn sẽ bùng phát. Mặc dù các cá nhân hành giả có tâm thức chưa giác ngộ và phạm phải những hoạt động chưa giác ngộ và bị mắc kẹt trong sự hiểu biết vô minh, nhưng tăng đoàn bình thường vẫn mang lại cơ hội tốt nhất để áp dụng Giáo Pháp. Chúng ta đã chia sẻ những lý tưởng và mục tiêu chung, và chúng ta có thể hướng về dòng truyền thừa của các vị thầy và kinh văn để được hướng dẫn. Chúng ta có thể soi gương cho nhau theo những cách mà người khác không thể làm được.
In general, people tend to minimize the importance of the ordinary sangha: Buddha is a big deal, dharma is a big deal, and sangha is something to put up with. Yet it’s within the ordinary sangha, monastic or lay, that the roughest edges of our arrogance and pride can be smoothed down a little.
How do the bodhisattva ideals hold up when we actually interact with others? Problems within the sangha inevitably arise because we’re talking about unenlightened people trying to get along with each other. Jealousy, competition, and anger inevitably erupt.
Although individual practitioners have unenlightened minds and commit unenlightened activities and get ensnared in ignorant understanding, the ordinary sangha still offers the best opportunity to apply dharma. We have shared ideals and shared goals, and we can turn to the lineage of teachers and texts for guidance. We should be able to hold a mirror up to each other in ways that others cannot.
NĂM GIỚI NGUYỆN TRONG ĐẠO PHẬT.
Đây là một bản tóm tắt ngắn gọn về quy y và những giới nguyện mà một Phật tử thực hành có thể thực hiện trong hành trình tìm kiếm giác ngộ.
Here is a brief summary of refuge and the vows that a practicing Buddhist can take in their quest for enlightenment.
Quy Y.
Quy y trong Phật giáo là một nghi lễ, một sự cam kết và một lời tuyên bố về lòng tin. Một hành giả sẽ thỉnh cầu lễ quy y từ một vị thầy đủ phẩm chất; một số người xem như quá trình này trao cho họ trạng thái trở thành một “Phật tử”. Các nghi thức của buổi lễ có thể thay đổi một chút tùy theo vị thầy, nhưng yếu tố cốt lõi là sự cam kết tìm kiếm sự giải thoát khỏi đau khổ của hành giả. Tam bảo mà người ta quy y là Phật, Pháp (giáo lý/con đường) và Tăng đoàn.
Refuge in Buddhism is a ceremony, a commitment, and a statement of faith. A practitioner requests the refuge ceremony from a qualified teacher; some regard this process as conferring upon them the state of being a “Buddhist.” The rituals of the ceremony may vary slightly according to the teacher, but the core element is the practitioner’s commitment to seeking liberation from suffering. The triple gem in which one takes refuge is the Buddha, the Dharma (the teachings/path), and the Sangha.
Năm Giới Luật của Người Cư Sĩ:
Theo giáo lý nhà Phật, việc thực hành đạo đức là một trong ba hình thức rèn luyện cơ bản mà người Phật tử thực hiện; hai điều còn lại là thiền định và trí tuệ. Giới luật đạo đức (giới nguyện) hướng dẫn người thực hành khảo sát nhân quả (nghiệp), cũng như sự xả ly, nhẫn nại và trung thực cần có của việc thực hành này sẽ soi sáng giáo lý như thế nào. Trong lễ quy y, một hành giả được hướng dẫn là họ có thể thọ tất cả năm giới, không giữ giới nào, hoặc kết hợp cả năm giới.
According to Buddhist teachings, the practice of ethics is one of the three principle forms of training that Buddhists engage in; the other two being meditation and wisdom. Ethical precepts (vows) guide a practitioner in examining cause and effect (karma), as well as how the renunciation, patience, and honesty required of this practice illuminate the teachings. During the refuge ceremony, a practitioner is instructed that they may take all five precepts, none of the precepts, or a combination of the five.
Năm giới nguyện cần phải tránh là:1. Sát sanh;2. Lấy của không được cho [trộm cắp];3. Tà dâm;4. Nói dối;5. Uống rượu.
The five vows to be kept are to avoid:
- Killing;
- Taking what has not been given;
- Sexual misconduct;
- Telling lies;
- Drinking alcohol.
Khi một người suy ngẫm về giới luật, các tầng ý nghĩa sẽ được chiếu sáng trong mỗi giới nguyện. Điều quan trọng nhất trong việc thọ giới là hiểu rằng đó là sự cam kết của một cá nhân; sử dụng giới luật để đánh giá hành vi của người khác là hoàn toàn phản tác dụng.
- Bốn giới đầu là: tránh sát sinh, lấy của không cho, tà dâm và nói dối.
- Lời nguyện thứ năm là tránh uống rượu để bảo vệ các giới nguyện khác khỏi bị vi phạm, vì khi say rượu thì khó kiểm soát hành động của mình hơn. Giới nguyện này bảo vệ những giới nguyện khác giống như hàng rào bao quanh cánh đồng trồng trọt.
As one reflects upon the precepts, layers of meaning are illuminated in each vow. Of great importance in taking precepts is the understanding that it is an individual commitment; using the precepts to judge another’s behavior is utterly counter-productive.
- The root vows are the first four: avoiding killing, taking what has not been given, sexual misconduct, and telling lies.
- The fifth vow of avoiding alcohol protects the other vows from being broken, since when one is intoxicated, it is more difficult to control one’s actions. This vow protects the others like a fence around a field of crops.
(Những giới nguyện này phải được thực hiện như là phần thứ hai của lễ quy y. Nếu vị lạt ma hoặc vị thầy ban lễ quy y bao gồm phần này, họ sẽ giải thích rằng bạn có thể thọ bao nhiêu giới nguyện tùy thích và có thể giữ được. Với người cư sĩ bạn không cần phải thọ tất cả năm giới quy y, mà nên thọ bao nhiêu tùy khả năng của bạn, vì lợi ích của việc giữ giới nguyện.)
(These vows must be taken as the second part of the refuge ceremony. If the lama or teacher giving refuge includes this section, they will explain that you may take as many of the vows as one likes and is able to keep. With the lay refuge vows, you are not required to take all five, but should take as many as you are able to keep, due to the benefit of keeping vows.)
Mất Giới Nguyện Gốc.
Bốn giới nguyện gốc có thể bị phá bỏ từ căn bản theo những cách sau. Lời nguyện này bị mất từ căn bản và do đó cần phải thọ lại nếu người ta vi phạm bất kỳ giới nguyện nào trong bốn giới nguyện gốc bằng cách:
1. giết người;
2. ăn trộm đồ vật có giá trị đối với người khác;
3. tham gia vào hành vi sai trái về tình dục; nghĩa là tham gia vào các hoạt động tình dục với bạn tình của
người khác;
4. nói dối tột độ; nghĩa là, giả vờ như một người đã đạt được những chứng ngộ về nền tảng và con
đường mặc dù người đó chưa đạt được.
The four root vows can be broken from the root in the following ways. The vow is lost from the root and so should be taken again if one transgresses any of the four root vows by:
- killing a human being;
- stealing an object that is valuable to another person;
- engaging in sexual misconduct; that is, engaging in sexual activities with another’s partner;
- telling a supreme lie; that is, pretending one has attained realizations of the grounds and paths even though one has not.
Sa Sút Giới Nguyện
Ngược lại, người ta không mất giới nguyện từ căn bản mà sa sút giới nguyện, cần phải sám hối nếu người ta vi phạm giới nguyện bằng cách:
1. giết hại một loài không phải là con người, chẳng hạn như một con vật;
2. trộm đồ không có giá trị;
3. tham gia vào hành vi tình dục tại thánh địa; vào một thời điểm đặc biệt (ví dụ: ngày rằm, ngày 8 âm lịch,
ngày lễ Phật đản v.v.); hoặc tham gia hoạt động tình dục trong khi thọ tám giới một ngày;
4. nói dối thông thường;5. uống rượu.
Otherwise, one does not lose the vow from the root but receives a downfall, which must be confessed, if one transgresses the vows by:
- killing a non-human, such as an animal;
- stealing an object of no value;
- engaging in sexual conduct at a holy place; at a special time (for example, on full moon day, on the eighth day of the lunar calendar, on Buddha’s special holy days, etc.); or engaging in sexual activity whilst living in the one-day eight precepts;
- telling ordinary lies;
- drinking alcohol.
Vì vậy, nên sám hối và tiết chế một cách chính xác, đó là phương pháp tịnh hóa. Nên bảo vệ kỹ lưỡng và chặt chẽ bằng tâm thức sáu hành động bất thiện còn lại, một phần tương tự như những ác nghiệp trước đó (tức là gần với những ác nghiệp nặng nề đó), bằng cách tránh nói lời vu khống, nói lời thô ác, nói chuyện phiếm, tham lam, ý định có hại và tà kiến.
Therefore, one should confess and abstain precisely, which is the method of purification. One should protect well and tightly with the mind the six remaining non-virtuous actions, which are similar in part to the previous negative karmas (that is, close to those heavy negative karmas), by avoiding slander, harsh words, gossip, covetousness, harmful intention, and wrong views.
Aura of Wisdom.
Reference.
- Taking Refuge in the Triple Gem. Christina Felman. https://www.lionsroar.com/taking-refuge-three-jewels/
- Why We Take Refuge. Yongey Mingyur Rinpoche, https://www.lionsroar.com/why-we-take-refuge/.
- Which Vows Are Which? A beginner’s guide. Foundation for the Preservation of the Mahayana Tradition. https://fpmt.org/mandala/archives/mandala-issues-for-2006/june/which-vows-are-which-a-beginners-guide/