Tái Quyết Tri và Hiển Nhi Bất Định
Để cố gắng kiểm soát tâm là lý do tại sao chúng ta ở đây cố gắng hiểu tâm thức để chúng ta có thể tránh cho tâm này có thể điều khiển chúng ta như là một con voi hoang dã. Vì vậy, chúng ta đã học qua rất nhiều chủ đề cho đến ngày hôm nay. Tôi nghĩ rằng chúng ta cần phải học hoặc nói về ‘tái quyết tri’ [tri nhận tiếp theo sau] và ‘hiển nhi bất định’ [giác tri đối với đối tượng trình hiện mà không xác định].
Tâm thức thứ hai, ‘hiển nhi bất định’ về cơ bản là một cái tên như xe hơi. Tên dài như vậy vì bản tiếng Tây Tạng rất dài [snang-la ma-nges-pa log]. Nên không có cách nào mà [snang-la ma-nges-pa log] có thể dịch theo nghĩa đen thành một từ trong tiếng Anh. Vì vậy, khi dịch sang tiếng Anh, nó thành ‘awareness to which the object appears without being ascertained’ [giác tri đối với đối tượng trình hiện mà không xác định], nghe có vẻ giống như định nghĩa của một cái gì, nhưng như là tên của một con bò hoặc mặt trời.
Tái quyết tri.
Dù sao, chúng ta hãy nói một chút về ‘tái quyết tri’, chúng ta đã nói qua ‘tái quyết tri’. Này, về cơ bản, định nghĩa về ‘tái quyết tri’sẽ giống như một ‘liễu tri’ [tâm biết] nhận ra những gì đã được chứng. Như tôi đã nói ở lần trước, chúng ta đã học qua hai ‘lượng’ [tâm tri nhận xác thực], ‘tỷ độ’ [tâm tri nhận bằng luận đoán] và ‘hiện lượng’ [tâm tri nhận xác thực trực tiếp]. Đó là hai tâm mà chúng ta đã nói qua lần trước, vậy bây giờ là tâm thứ ba, ‘tái quyết tri’ [tâm tri nhận tiếp theo sau]. Như tôi đã nói với bạn, ‘tái quyết tri’ là khoảnh khắc thứ hai của tâm đầu tiên và tâm thứ hai, hai ‘lượng’đó.
‘Tái quyết tri’ cơ bản là một liễu tri.
Trong các sách tâm lý học Phật giáo, hay Lorig, bạn sẽ thấy rằng một ‘tái quyết tri’ về cơ bản là một ‘liễu tri’ nhận ra đối tượng vừa mới được chứng [nhận ra]. Và đây là hai loại như tôi đã nói, một loại là ‘ý nghĩ phân biệt’ và một loại là ‘hiện tiền’, không phải là tâm xác thực. Tâm xác thực là khoảnh khắc [sát na] đầu tiên, vì vậy ‘tái quyết tri’ này luôn là sát na thứ hai.
Lý do tại sao gọi là ‘liễu tri’ nhận ra cái đã được chứng. Ví dụ, tôi nhìn thấy một chiếc xe hơi, tôi nhận ra chiếc xe từ nhãn thức của tôi. Do đó, sát na thứ hai của nó, sát na thứ hai khi nhãn thức của tôi dừng lại, khi tôi nhìn xung quanh rồi tôi vẫn nhớ, tôi nhớ “Ồ tôi đã nhìn thấy chiếc xe đó”. Vì vậy, khi tôi nhớ chiếc xe đó, tôi đang nhận ra chiếc xe đã được chứng không phải bằng ‘tái quyết tri’ mà bằng nhãn thức. Cho nên, ‘tái quyết tri’ là giác tri nhận ra chiếc xe đã được nhận biết bằng nhãn thức là lý do tại sao trong bản văn, bạn sẽ thấy là ‘liễu tri’ nhận ra đối tượng đã được chứng bởi một tâm tri nhận ngay sát na đầu tiên, đó là một ‘lượng’ [tâm tri nhận xác thực], ví dụ, nhãn thức.
Khoảnh khắc thứ hai của tâm Phật không phải là ‘tái quyết tri’?
Bây giờ vấn đề ở đây: nếu ai đó nói rằng nếu ‘một liễu tri’ nhận ra đối tượng đã được chứng là ‘tái quyết tri’, thì câu hỏi đặt ra là còn sát na thứ hai của tâm của Đức Phật thì sao? Bởi vì trong các luận giải, chúng ta có thể tìm thấy rằng tất cả tâm của chư Phật đều là ‘lượng’, không có ‘tái quyết tri’. Nhưng sát na thứ hai, chẳng hạn khi Đức Phật đang nhìn vào một chiếc xe hơi, sát na đầu tiên của nhãn thức, dĩ nhiên, là một ‘hiện lượng’ [tâm tri nhận xác thực trực tiếp], còn sát na thứ hai thì sao? Còn khi Phật không nhìn chiếc xe, khi Phật nghĩ đến chiếc xe, vậy thì sao? Đó không phải là một ‘tái quyết tri’ hay không?
Ai đó có thể nói rằng đó phải là ‘tái quyết tri’ vì đó là ‘một liễu tri’ nhận ra chiếc xe đã được chứng, bởi vì Đức Phật đã nhận ra nó trước đây và bây giờ Đức Phật chỉ là một kiểu nhớ lại hoặc suy nghĩ lại. Vì vậy, đó không chỉ là việc nhận ra đối tượng, nhận ra chiếc xe đã được chứng, mà còn phải là một ‘tái quyết tri’, còn phải là một ‘liễu tri’ nhận biết đối tượng của nó không phải bằng lực của chính nó.
‘Tái quyết tri’ phải là một tâm nhận ra đối tượng bằng lực của tâm trước đó. Nó phải là một tâm như vậy có khả năng biết đối tượng của nó bằng lực của chính nó, phải là một tâm nhận biết đối tượng của nó, biết một chiếc xe hơi, giống như bạn nhận ra một chiếc xe hơi, khi bạn nhìn xung quanh, bạn nhớ chiếc xe, nên tâm nhớ chiếc xe đó là một ‘tái quyết tri’. Và tâm đó rõ ràng nhận ra chiếc xe, nhưng lý do tại sao tâm đó nhận ra một chiếc xe, đó là do nhãn thức. Nếu nhãn thức không nhận ra thì không có cách nào bạn có thể nhớ được chiếc xe hoặc bạn có thể nhận ra chiếc xe bằng ý nghĩ phân biệt đó.
Nhưng tâm của chư Phật là tâm khác biệt, tâm của chư Phật, dù cho tâm trước không nhận ra, thì kế tiếp, ngay cả sát na thứ hai hoặc sát na sau đó của tâm cũng có khả năng nhận ra bằng lực của chính nó. Có nhiều Đạo sư Phật giáo cho rằng tâm chứng được chiếc xe thì không thể nhận ra, chẳng hạn, một con bò hay một chiếc xe máy. Mỗi tâm đều khác nhau khi nói đến nhãn thức của chúng ta, nó đúng là khá nhiều. Khi chúng ta nhìn bốn hướng hoặc khi chúng ta nhìn 5-6 thứ khác nhau, rồi khi chúng ta nhìn vào một cuốn sách, thì nhãn thức mà đối với nhãn thức đó cuốn sách trình hiện sẽ kích hoạt, khi chúng ta nhìn vào màn hình, thì nhãn thức mà chúng ta vừa nhìn thấy cuốn sách giống như ngừng hoạt động và nhãn thức mà chúng ta nhìn thấy màn hình là khác, bởi vì nó thậm chí không phải là một dòng liên tục. Nhãn thức giống như một cái tách bạn cho nước vào, đổ nước đi, bạn cho cà phê vào, bỏ cà phê đi, bạn cho trà vào, bỏ trà đi, nhưng sự vật vẫn giống nhau, chỉ có thứ đựng trong tách là đang thay đổi. Tuy nhiên khi nói đến nhãn thức của chúng ta, thì nhãn thức thậm chí không phải là cùng một dòng liên tục.
Khi chúng ta nhìn một con bò, khoảnh khắc tiếp theo chúng ta nhìn có thể là con trâu yak, sau đó nhãn thức chúng ta nhìn thấy con bò không tiếp tục hoặc đổ về hoặc trở thành tâm thức mà chúng ta nhìn thấy con trâu yak, những điều này đúng là khác nhau. Khi bạn nhìn vào một con bò, và sau đó khi bạn nhìn vào con trâu yak, thì tâm thức mà chúng ta thấy con bò tan biến, hoặc có thể thay vì ‘tan biến’, tôi nghĩ tốt hơn nên nói ‘ngưng hoạt động’, giữ tình trạng không hoạt động giống như một chế độ ngủ.
Vì vậy, mỗi khoảnh khắc khi chúng ta bước đi, nhãn thức của chúng ta luôn thay đổi, thay đổi. Mỗi khi nhãn thức này thay đổi, nó đều để lại dấu ấn trong tâm thức của chúng ta. Vì vậy, tâm đơn nhất của chúng ta không có khả năng nhận thức hoặc biết mọi thứ hoặc nhiều thứ. Nhưng tâm của Đức Phật thì hơi khác một chút, có một lôgic đằng sau, rất dễ hiểu ngay cả từ góc độ lôgic. Nhưng nói thẳng ra là Phật, dù chỉ một tâm, nhãn thức nhìn vào cái tách cũng có thể nhận ra con bò, cũng nhận ra được cuốn sách và màn hình, bút chì, cây viết và mọi thứ. Và ngay cả sát na thứ hai của điều đó cũng có khả năng nhận biết những sự vật bằng lực của chính nó, vì vậy, tâm của chư Phật là một trong những loại tâm cao siêu sở hữu lực của chính nó, ngay cả khi đó là sát na thứ hai. Nhưng tâm của chúng ta nếu chúng ta nhận ra đối tượng không phải bằng lực của chính nó, mà lực của một số tâm khác đã nhận ra nó trước khi bạn có thể nhìn thấy, rồi bạn có thể nói ‘OK’, nên đây là ‘tái quyết tri’. Và như tôi đã đề cập trước đây, ‘tái quyết tri’ chỉ có thể được cảm ứng hoặc bởi một ‘lượng’ hoặc một ý nghĩ phân biệt trực tiếp hoặc gián tiếp. OK, đó là khá nhiều về ‘tái quyết tri’.
Hiển nhi bất định
Và kế tiếp tâm thức thứ tư, ‘hiển nhi bất định’ [tâm thức mà đối với tâm thức đó đối tượng trình hiện không được xác định], nên tâm này là trong chính cái tên của nó, nghe khá rõ ràng. Đây chắc chắn là một trong những ‘hiện tiền’ mà đối với tâm đó đối tượng trình hiện, ví dụ, nếu một người đang nhìn vào chiếc xe, chiếc xe trình hiện đối với tâm thức, nhưng tâm không thể nhận ra chiếc xe, đôi khi tâm không thể nhận ra bởi vì đối tượng rất vi tế, nhưng chiếc xe thì không vi tế. Và khi xảy đến với chiếc xe, có thể bạn đang bị phân tâm với âm nhạc, có thể bạn đang bị phân tâm với một số thứ khác, có thể bạn đang thưởng thức một món ăn rất ngon, vì vậy đó là lý do tại sao bạn thực sự không nhận ra đó là chiếc xe nào. Vì vậy, trong trường hợp đó, nhãn thức mà chúng ta nhìn thấy chiếc xe sẽ trở thành tâm thức thứ tư này, ‘hiển nhi bất định’, nên tâm thức này, như tôi đã đề cập trước đó, khi xảy đến với nhãn thức, giả sử một chiếc xe hơi khi bạn bị phân tâm với một cái gì đó như âm nhạc.
Và chính xác tương tự cho tai, bạn đang nghe nhạc nhưng cùng lúc bạn nhìn thấy điều gì đó, giả sử một tai nạn, bạn nhìn thấy một điều rất sửng sốt, cùng lúc ai đó nói điều gì đó và rồi bạn không có lắng nghe, nên nhĩ thức đó trở thành tâm thức thứ tư này, ‘hiển nhi bất định’. Tương tự như mùi, trong thời gian COVID, nhiều người không thể nhận ra mùi, không ngửi được, khi bạn đứng trước một loại nước hoa, rồi vì bệnh, bạn ngửi nó, hoặc mùi trình hiện đối với tỵ thức, nhưng tỵ thức không có khả năng nhận ra nó. Và kế đến tương tự với hương vị, cũng như vậy với thân vật lý, vật xúc chạm. Nên năm căn thức cũng như ý thức cũng có thể là tâm này, ‘hiển nhi bất định’. Ví dụ là như tôi đã đề cập trước đây, những những tâm hiện tiền, những ‘ý hiện tiền’ của chúng ta rất ngắn, chưa bằng một khoảng thời gian tia sáng lóe lên. Do đó, vì một khoảng thời gian ngắn như vậy, nó không thể nhận ra được đối tượng này mặc dù đối tượng trình hiện đối với tâm. Vì vậy, đây là ‘hiển nhi bất định’.
Khi chúng ta phân loại những tâm thức này thành bảy loại, không có nghĩa là tất cả các tâm trí đều đi vào bảy loại này. Có rất nhiều tâm không phải là tâm nào cả trong số bảy tâm này, nhưng bảy tâm này vẫn là một trong những tâm được biết đến nhiều nhất, và điều rất quan trọng là phải biết điều đó theo nghĩa này.