Ngũ biệt cảnh
Ngũ biệt cảnh [Năm tâm sở khẳng định] mà tôi nghĩ chúng ta đã nói qua trong thời gian qua là: ‘dục’ [mong cầu], ‘thắng giải’ [niềm tin], ‘niệm’ [chánh niệm], ‘định’ và ‘huệ’. Sở dĩ gọi là năm tâm sở khẳng định vì có hai cách giải thích. Đầu tiên, nó có đối tượng nhất định của riêng nó, đây là một cách giải thích và cách giải thích thứ hai và rất phổ biến tại sao chúng được gọi là những tâm sở khẳng định là bởi vì những tâm này nhận ra đối tượng của nó và năm tâm sở này đi cùng với hầu hết những tâm vương nhận ra đối tượng của nó.
Vì vậy, có ba tâm sở nhận ra các đối tượng của nó mà tôi đã nói trước đó: Tâm đầu tiên là ‘hiện tiền’ [tâm nhận biết trực tiếp], ‘lượng’ [tâm tri nhận xác thực]; ‘tỷ lượng’ [tâm tri nhận xác thực bằng luận đoán] và tiếp đó là ‘tái quyết tri’ [tâm tri nhận xác thực tiếp theo]. Do đó, ‘ngũ biệt cảnh’ này, tôi muốn nói, đi cùng hầu hết với những tâm chứng [nhận ra] đối tượng của nó, vì vậy từ “khẳng định” cũng là một trong những từ gần như đồng nghĩa với nhận ra đối tượng của nó.
Vì vậy, dục [mong cầu] là một trong những tâm sở tham dục hơn, hoặc cố gắng tìm kiếm đối tượng, là điều mà sự mong cầu thực hiện. Và kế đó tâm sở thứ hai là thắng giải [niềm tin], ‘thắng giải’ giống như trong tiếng Tây Tạng nó là /moe pa/ giống như ràng buộc vào đối tượng một cách vui vẻ, đó là tâm sở thứ hai. Tâm sở thứ ba là chánh niệm, ‘chánh niệm’ là tâm sở nắm giữ đối tượng quan sát và cơ sở hay khía cạnh của đối tượng. Và kế đó là định, như các bạn đều biết, ‘định’ giống như tâm giúp giữ sự chú ý vào đối tượng cụ thể đó mà không làm mất sự tập trung. Sau đó đến huệ.
Bạn xem đây [xem sơ đồ ở cuối bài], đây là bảng phân bảy loại của tâm thức, và rồi nếu bạn đi xuống phía dưới có một bảng khác phân hai loại của tâm trí và bây giờ chúng ta đang ở chỗ ‘ngũ biệt cảnh’. Ở đây bạn sẽ tìm thấy như là hai cột, cột đầu tiên, những tâm vương như bạn có thể thấy, những tâm vương này hoặc được phân thành hai, đó là căn thức và ý thức. Hoặc cách phân loại khác, bạn cũng có thể phân loại các tâm chính thành sáu loại bằng cách chia năm căn thức thành năm loại, đó là những gì bạn thấy ở cột đầu tiên.
Và sau đó là các tâm sở, sáu cột còn lại dành cho các tâm sở. Vì vậy, các tâm sở như tôi đã nói qua ‘ngũ biến hành’:, như bạn có thể thấy trên màn hình, cảm thọ, tưởng [sự phân biệt], tư [ý định], tác ý [sự tham gia về mặt tinh thần] và xúc [tiếp xúc] mà chúng ta đã nói trong buổi học vừa qua và cột có màu đỏ.
Vì vậy, bây giờ ở đây chúng ta sẽ đi qua ‘ngũ biệt cảnh’ [năm tâm sở khẳng định] hoặc đây là năm tâm sở đi cùng với phần lớn những tâm nhận ra đối tượng của nó. Dục [mong cầu], như tôi đã nói với các bạn, đó là một tâm sở, chủ yếu hoạt động về tìm kiếm hoặc khao khát tìm kiếm đối tượng đó. Thắng giải [niềm tin], như tôi đã nói, gắn kết đối tượng với một loại niềm vui. Niệm, đó là một tâm sở nắm giữ đối tượng quan sát và khía cạnh của đối tượng. Định, dĩ nhiên, đây là tâm sở giúp giữ sự chú ý vào đối tượng mà không bị mất sự tập trung. Kế đó huệ là tâm sở giúp phân tích đối tượng hoặc xem xét khía cạnh của đối tượng là điều mà trí huệ thực hiện. Do đó, các tâm sở được gọi là ‘ngũ biệt cảnh’, đó là bởi vì, như tôi đã đề cập, theo một cách giải thích, nó có một đối tượng nhất định, một đối tượng xác định nào đó hoặc theo cách giải thích thông thường sẽ gọi là khẳng định đối tượng bởi vì nó nhận ra đối tượng của nó.