Bốn Nhân và Duyên của Tâm
Nhân duyên [điều kiện nhân quả]
Thứ đệ duyên [có trước có sau hay đẳng vô gián duyên, điều kiện đều đều không gián đoạn]
Sở duyên duyên [điều kiện có đối tượng],
Tăng thượng duyên [điều kiện ưu thế hơn]
Vì vậy, để khởi động một tâm như vậy, cần có bốn duyên [điều kiện]. Bạn nhìn vào cái điện thoại và bạn nhìn thế giới, bạn nhìn cửa sổ hay bạn nhìn ra cửa, bạn cần có bốn điều kiện để khởi động mỗi một tâm thức. Bạn nghĩ về một con bò, sau đó bạn nghĩ đến một chiếc xe hơi và bạn nghĩ đến bơi lội, với mỗi nhãn thức hoặc ý nghĩ hoặc ý thức kích hoạt bên trong bạn, thì bạn cần bốn điều kiện để kích hoạt tâm đó. Vì vậy, hôm nay chúng ta sẽ đi qua bốn điều kiện này.
Nếu tôi chỉ gọi tên bốn điều kiện của tâm, thì điều kiện đầu tiên là nhân duyên, giống như nguyên nhân và kết quả, điều kiện nhân quả, là điều kiện đầu tiên; điều kiện thứ hai là thứ đệ duyên; điều kiện thứ ba là sở duyên duyên và điều kiện thứ tư là tăng thượng duyên.
Khi bốn điều kiện này đã sẵn sàng, thì tâm thức sẽ hiện hữu. Vì vậy, bốn điều kiện này giống như yếu tố cha/mẹ, để sinh ra một đứa trẻ, cần có cha mẹ, nên tương tự như vậy để tạo ra một tâm, thì cần đến bốn điều kiện này. Khá thú vị theo ý nghĩa chỉ là lĩnh vực hoặc thế giới khác nhau và với điều này, bạn sẽ có thể hiểu chẳng hạn biết mọi thứ, không thực sự dễ dàng để thấy mọi thứ và sau đó chúng ta coi đó là điều hiển nhiên, nhưng có rất nhiều thứ đằng sau nó, cho nên điều kiện nhân quả (nhân duyên), điều kiện liên tục không gián đoạn (thứ đệ duyên), điều kiện có đối tượng (sở duyên duyên) và điều kiện ưu thế (tăng thượng duyên):
- Nhân duyên [điều kiện nhân quả]
Vậy, điều kiện đầu tiên là nhân duyên [điều kiện nhân quả]. Về cơ bản lấy một ví dụ khi một người nhìn thấy một chiếc xe hơi bằng nhãn thức, vậy bốn điều kiện phải trải qua. Điều kiện đầu tiên là nhân duyên, vậy nhân duyên là bạn phải có nghiệp nhìn thấy chiếc xe như vậy, bạn phải có thói quen nhìn thấy chiếc xe như vậy, bạn phải có một số nghiệp, thói quen và cũng có rất nhiều nguyên nhân đằng sau nó, cho nên tôi sẽ giải thích thêm một chút.
Mỗi một nhãn thức đều có khả năng riêng của nó, ví dụ, những gì chúng ta nhìn thấy và những gì một số loài động vật nhìn thấy rất khác nhau. Giả sử chúng ta có thể nhìn thấy nhiều loại màu sắc khác nhau, nhưng có nhiều động vật chỉ có thể nhìn thấy một vài màu sắc. Ngay cả giữa con người, chẳng hạn có hai người, cả hai đều nhìn vào cùng một chiếc xe với nhãn thức nhưng nó trình hiện khác nhau đối với cả hai. Cả hai nhìn vào cùng một chiếc xe, nhưng một người có thể thích, một người có thể không thích.
Tôi có nghe nói con gián về cơ bản không thể nhìn thấy con người vì mắt của gián chỉ có thể nhận biết không gian 2 chiều (2-D), nếu tôi nhớ không nhầm thì mắt người có thể nhìn thấy không gian 3-D – Các nhà nghiên cứu nói rằng đâu đó có khoảng 10 hoặc 11 hoặc 12 chiều không gian đó. Vì vậy, mắt của chúng ta rơi vào không gian 3-D, ý tôi là, về cơ bản những gì mắt chúng ta có thể nhìn thấy là không gian 3-D, chiều cao, chiều dài và kế là chiều rộng, nếu tôi không nhầm, do đó con gián có thể chỉ nhìn thấy như bức tranh khi nhìn vào người, con gián có thể nhìn thấy một mặt phẳng như thể chúng ta đang nhìn vào một bức tranh.
Như vậy lý do là vì nhân duyên khác nhau nên cái ta thấy là vì nhân duyên của chính chúng ta. Nếu bạn biết về sáu loại chúng sinh, có một loại gọi là Ngạ quỷ [Preta, skt.] hay ma đói, có một số loại chúng sinh, có một số loại tương tự như động vật, nhưng không phải là động vật không nhìn thấy nước. Trong nhiều kinh điển có giải thích là họ rất khát, nhưng không thể nhìn thấy nước.
Nếu bạn biết Lhasa, thủ phủ của Tây Tạng, có một vị đại sư đang giảng dạy, nhưng rồi có một người từ phương xa đến, ông ta là một lữ khách khi ông đến chỗ đó nơi vị thầy đang giảng dạy. Tất cả mọi người đều đang nghe giảng, đồng thời, có thể nhìn thấy vị thầy đang giảng dạy một số giáo lý sâu sắc. Bởi vì nghiệp quả, bởi vì thói quen trong quá khứ, nhân duyên của người đó, nên những gì anh ta thấy là vị thầy đó đang ăn thức ăn. Người đó không thể nhìn thấy vị thầy đó đang giảng dạy, anh ta không thể nghe thấy bất cứ điều gì, những gì anh ta thấy là vị thầy đang ăn một số thức ăn. Cũng như vậy, có một số chúng sanh khi nhìn nước thì họ không thể thấy nước, họ phải có nghiệp báo như vậy. Và một thực phẩm rất ngon nói chung cũng có thể không ngon đối với mọi người, bởi vì nghiệp riêng của họ. Vì vậy, những điều kiện này được gọi là nhân duyên.
Hiểu được nhân duyên là điều rất quan trọng, có thể không có nhiều hậu quả trong các vấn đề, nhưng vì nhân duyên đó mà nhiều người họ nhầm lẫn và bởi vì điều này mà nhiều người, thậm chí là chia tay giữa các cặp vợ chồng, hoặc giữa những người bạn hoặc giữa những người làm việc chung với nhau hoặc bất cứ điều gì, nhiều người trong số này là do có nhiều sự hiểu lầm. Và vấn đề là họ không thể nhìn nhận tình huống là đã bị hiểu lầm mà họ lại nhìn thấy như là một sự thật. Đôi khi họ nghe thấy như là một sự thật, đôi khi họ nhìn thấy như một sự thật và những gì họ thấy hoặc nghe hoặc hiểu lầm chỉ do suy nghĩ dựa trên khái niệm (suy nghĩ phân biệt) vì thói quen của chính mình, vì nghiệp quả của một người, rất nhiều lần. Có thể là lý do trong nhiều trường hợp, nhưng chắc chắn có rất nhiều trường hợp một người bạn rất tốt mà họ mới chia tay hoặc họ vừa trở thành kẻ thù. Nếu bạn phân tích kỹ lưỡng trong nhiều trường hợp, bạn sẽ thấy rằng đó chỉ là một sự hiểu lầm, không có cơ sở thực tế nào có thể khiến họ không hài lòng về nhau, đó chỉ là sự hiểu lầm trong cách một người nói chuyện, cách người đó lắng nghe và tất cả những điều này.
Tôi đã đề cập vấn đề này ở một trong những lớp học trước đây của tôi là người bình thường nói chung có thể chỉ tập trung khoảng 8-10 giây, cho nên sau mỗi tám hoặc tám đến 10 giây, tâm của chúng ta không chú ý đến đối tượng mặc dù chúng ta đang cố gắng hết sức tập trung vào một hiện tượng hoặc một sự vật, nhưng tâm của chúng ta có thể chỉ tập trung khoảng 8 đến 10 giây và sau đó tâm của chúng ta nhảy sang một thứ khác. Khi tâm chuyển sang một thứ khác và khi bạn bỏ lỡ khoảng thời gian ngắn ngủi đó, giả sử bạn đang lắng nghe ai đó trong 15 giây, trong 15 giây đó, ví dụ bạn nghe được 30 từ, mỗi giây giả sử bạn nghe được hai từ, thì trong 15 giây nói chung một người sẽ bị mất tập trung, hoặc ít nhất một lần. Khi bạn bị phân tâm một lần, trong 15 giây đó, về cơ bản bạn đang lỡ mất hai đến bốn từ. Vì vậy, một người nói với bạn 30 từ trong 15 giây và bạn bỏ lỡ bốn từ, nhưng thường bạn không có hỏi vì bạn cảm thấy và bạn nghĩ rằng bạn đã nghe tất cả, nhưng thực tế, bạn đã thật sự mất hai đến bốn từ.
Điều người ta thường làm là bạn tự điền vào chỗ trống, bạn chỉ việc tạo ra các từ trong tâm của bạn. Chúng ta rất giỏi về điều đó, cực kỳ chuyên nghiệp ở điều đó, chúng ta chỉ lấp đầy với điều mà chúng ta muốn lắng nghe hoặc chúng ta nghĩ. Nếu trước đó bạn bị điều gì làm phiền, có thể bạn không có tâm trạng tốt như vậy thì bạn sẽ điền vào một số từ tiêu cực. Nếu bạn đang có tâm trạng rất tốt thì bạn sẽ lấp đầy bằng những từ tích cực, mặc dù người ta đang nghe nói điều gì đó không tốt, bạn có thể không nhận ra điều đó là không hay, bạn có thể không nghe thấy hoặc bạn có thể vui vì những gì bạn đang cảm thấy, những từ nào mà người đó nói là tiêu cực, bạn lỡ mất trong một hoặc hai giây đó và kế đến bạn cảm thấy điều gì đó tích cực. Nhưng khi tâm trạng của bạn không vui, thì những gì bạn làm là bạn lấp đầy một cái gì đó tiêu cực, khi đó bạn hiểu lầm, dù cho người này nói rằng tôi không nói điều đó, bạn cũng sẽ nói rằng “Có mà, tôi đã nghe bạn nói điều đó”. Nhưng điều đó không đúng và đó là do nghiệp của chính bạn, do chính thói quen trong quá khứ của bạn, kế đến là kinh nghiệm trong quá khứ.
Khi một người nói điều gì đó và sau đó bạn lỡ mất hai từ và khi bạn bỏ lỡ hai từ đó, khi bạn không nghe thấy nó, bạn ghi lại, bạn ngay lập tức nghĩ về một trải nghiệm tương tự trong quá khứ, “Ồ OK”, nên bạn lấp đầy dựa trên kinh nghiệm trong quá khứ, thói quen trong quá khứ. Vì vậy, một lần nữa thói quen trong quá khứ và sự quen thuộc trong quá khứ đến thông qua một chủng tử và sau đó kích hoạt. Vì vậy cơ bản, nhân duyên có thể là nhiều yếu tố, nhưng tôi muốn nói đó là nghiệp quá khứ, thói quen trong quá khứ, kinh nghiệm trong quá khứ.
Vì vậy, ngay cả tâm thức, ngay cả đôi mắt, những gì bạn nhìn thấy từ mắt của mình không hoàn toàn ở bên ngoài, bạn không hoàn toàn nhìn thấy tình trạng ở bên ngoài. Đúng, bạn nhìn thấy những gì ở ngoài kia, nhưng có rất nhiều sự phóng chiếu, rất nhiều thói quen trong quá khứ, rất nhiều sự tương đồng và trải nghiệm trong quá khứ ảnh hưởng đến những gì bạn nhìn thấy ngoài kia. Nhiều loài động vật, khi chúng không có nghiệp nhìn thấy con người, khi chúng không có nghiệp thấy tất cả những màu sắc khác nhau này, thì chúng sẽ không nhìn thấy. Khi bạn không có nghiệp để ăn một món ăn ngon, bạn không thích nó, nếu bạn không có nghiệp ăn xoài, bạn không thích xoài. Thật là đơn giản.
Tại nhiều nước Châu Á, nhiều người họ thích sầu riêng, đây là một loại trái cây, trái sầu riêng, họ gọi nó là vua của các trái cây, và nhiều người yêu thích nó, và tôi thấy trên một số chuyến tàu người ta đưa thông tin như là ‘Bạn không thể mang theo sầu riêng vì rất nặng mùi’, nhưng mọi người thích nó, mọi người thực sự thích ăn, tôi biết có người thực sự bay từ đất nước đó đến Singapore để ăn sầu riêng. Nói thật, tôi đã thử, thật khủng khiếp, tôi mất vị giác trong vài giờ và sau đó người ta bảo tôi ăn một thức ăn khác, đại loại là xoài hấp hay gì đó, họ nói như là ‘một loại là vua của thực phẩm, một loại là nữ hoàng của thực phẩm, nó sẽ cân bằng, đại loại là như thế’, và sau đó tôi không biết xoài hấp có vị như thế nào vì sau khi ăn sầu riêng đó, lưỡi của tôi đúng là tê dại, có lẽ đó không phải là nghiệp của tôi, họ yêu thích nó, họ thực sự yêu thích nó và tôi đã ăn thử, nó thật khủng khiếp, tôi không thể nào giải thích được nó có mùi vị như thế nào.
Nhưng đây là cách điều kiện đó tác động, nhân duyên, vì vậy bất cứ thứ gì chúng ta nhìn thấy, chúng ta cảm thấy, chúng ta nghe thấy, chúng ta nếm thấy và rồi chúng ta nghĩ, có rất nhiều lực, có rất nhiều ảnh hưởng đến từ những duyên trong quá khứ của chúng ta, kinh nghiệm và thói quen trong quá khứ của chúng ta, đó là nhân duyên, đó là một điều kiện, nên phải có. Nếu bạn thấy một số thứ dễ chịu là do một số nghiệp tốt trong quá khứ, nếu bạn thấy thứ gì đó dở, tôi không thích sầu riêng vì nghiệp của tôi, có thể là một số nghiệp khủng khiếp, vì vậy đó là lý do tại sao tôi không thể thưởng thức sầu riêng nhưng có một số nghiệp tốt liên quan đến, chẳng hạn xoài hấp, vì vậy đó là lý do tại sao một số người thích xoài hoặc xoài hấp hoặc bất cứ thứ gì. Vì vậy, đây hoàn toàn đều do nhân quả này ảnh hưởng.
- Thứ đệ duyên [điều kiện có trước có sau]
Điều kiện thứ hai là thứ đệ duyên, trước khi chúng ta nhìn thấy thứ gì, chẳng hạn như khi bạn nhìn chiếc xe, trước khi nhãn thức được phát khởi, bạn phải có một mong muốn nhìn thấy, một ý nghĩ nhìn thấy, một suy nghĩ nhìn thấy một cái gì đó. Đôi khi một số người nói rằng khi bạn mở mắt ra, bạn không phải lúc nào cũng có ý định thật sự phải nhìn thấy, không phải lúc nào bạn cũng có động lực để nhìn thấy. Một số người nói như khi bạn thức dậy, bạn mở mắt và nhìn thấy trần nhà, cái quạt hoặc bất cứ thứ gì trên mái nhà của bạn, thì riêng trường hợp đó bạn không có thứ đệ duyên bởi vì bạn không có ý định nhìn thấy điều đó. Bạn không có ý định nhìn thấy trần nhà hoặc là cái quạt, nhưng chỉ cần bạn có ý định mở mắt, một ý định nhìn thấy nhẹ thôi là lý do tại sao bạn mở mắt hoặc một số giải thích nói rằng khi bạn mở mắt, thì khoảnh khắc (sát na) đầu tiên, dù cho bạn mở mí mắt lên, khoảnh khắc đầu tiên bạn không nhìn thấy sự vật, sự vật phải trình hiện, tôi sẽ giải thích ngay sau. Đó là lý do tại sao nó được gọi là thứ đệ duyên, nên phải có một ý thức, ý nghĩ hoặc mong muốn hoặc ước muốn nhìn thấy một chiếc xe ngay trước khi nhãn thức của bạn nhìn thấy chiếc xe đó.
Nếu không có ý nghĩ hoặc mong muốn nhìn thấy chiếc xe, thì mắt bạn không thể nhìn thấy. Cho nên, ý nghĩ tương tự phải được kích hoạt, ví dụ, nếu bạn đang rất buồn, giả sử ai đó đã nói xấu về với bạn, ai đó nói rằng bạn thực sự rất ngớ ngẩn. Bạn thực sự bị tổn thương bởi vì bạn tin tưởng người đó và rồi người đó lại nói rằng bạn ngớ ngẩn dù cho bạn không có ngớ ngẩn, nói chung mọi người trở nên ngớ ngẩn vào lúc đó vì việc tin rằng bạn bị tổn thương do nghe người nào đó nói rằng bạn thật ngớ ngẩn.
Thực ra bạn nên biết rằng bạn không hề ngớ ngẩn, nếu bạn bị tổn thương thì bạn đang tin người đó ở một khía cạnh nào đó, nếu bạn tin người đó ở một khía cạnh nào đó thì bạn đang ngớ ngẩn. Điều tôi đang cố gắng nói ở đây là khi bạn bị tổn thương bởi một điều gì đó, giả sử ai đó đã nói điều gì đó không đúng đối với bạn, thì bạn nghĩ về một điều khác: “Ồ, lần trước anh ta đã nói như vậy hoặc lần trước ai đó đã nói điều đó, ồ năm ngoái có ai đó đã nói điều đó.” Khi bạn có một suy nghĩ như vậy, thì tự động sẽ phát khởi ra nhiều suy nghĩ tương tự. Nếu bạn tiêu cực, bạn sẽ nghĩ về nhiều thứ khiến bạn tiêu cực hơn, nếu bạn buồn, bạn nghĩ về nhiều điều khiến bạn buồn hơn, nếu bạn hạnh phúc bạn nghĩ ra nhiều điều tốt. Giả sử bạn rất tức giận vì có ai làm điều gì đó, bạn càng tức giận hơn khi nghĩ về “Ồ anh ta đã làm điều này, thì lần này anh ta nhận lấy điều này”, nên bạn nghĩ về nhiều điều khác. Giống như khi bạn buồn, bạn muốn nghe một bài hát buồn, khi bạn vui, bạn muốn nghe một bài hát vui vẻ.
Thực ra đó là điều ngu ngốc, nhưng đây lại là cách tâm của chúng ta hoạt động. Thực ra khi bạn hạnh phúc bạn nên nghe một số bài hát trung tính để bạn không có vui quá nhiều, bạn không bay bổng, và cũng vậy khi buồn bạn nên nghe những bản nhạc vui nào đó để vơi đi nỗi buồn, nhưng thường thì không, khi buồn người ta lại nghe bài hát buồn.
Vì vậy, những gì tôi đang muốn nói ở đây là một tâm, một tâm cụ thể kích hoạt giúp những tâm tương tự khác khởi động. Giống như một con chó sủa và thì tất cả những con chó khác sủa theo, nếu là một bông hồng, cho dù có một số con chó xung quanh, chúng không sủa, nó là một chủng loài khác, nếu một con chó sủa thì tất cả những con chó khác sẽ sủa theo.
Lý do tại sao tôi nói điều này là để bạn nhớ những gì tôi đang cố gắng nói ở đây là tâm thức của một người kích hoạt thì những tâm thức tương tự sẽ khởi động vào lúc đó. Cho nên, thứ đệ duyên khá giống như vậy, để có thể nhìn thấy một chiếc xe, một tâm thức tương tự phải đi trước và chúng ta phải giúp nó kích hoạt: trước khi bạn nhìn thấy một chiếc xe, thì bạn có mong muốn nhìn thấy chiếc xe, bạn chỉ cảm thấy như nhìn thấy một chiếc xe hoặc bạn chỉ cảm thấy như nhìn vào hiện tượng đó, vì vậy cảm giác đó giúp cho nhãn thức khởi động. Do đó, cảm giác đó là một trong những yếu tố cha mẹ giúp khởi phát nhãn thức, nếu không có tâm đó, bạn không thể nhìn thấy chiếc xe.
Vì vậy, đó được gọi là thứ đệ duyên và lý do tại sao điều kiện này được gọi là thứ đệ là vì điều đó phải đến ngay trước đó. Giống như bạn có mong muốn nhìn thấy chiếc xe và sau 5-15 phút bạn sẽ thấy chiếc xe, không có xảy ra như vậy, nó phải xảy ra đúng khoảnh khắc, ngay tức khắc trước đó. Cho nên, đó là một trong những điều kiện cần phải có ở đó để phát khởi nhãn thức hoặc bất kỳ loại thức nào. Lý do tại sao tôi nói với nhãn thức vì nó dễ hiểu hơn đồng thời chỉ là một ví dụ để bạn có thể áp dụng cho tất cả các tâm thức khác.
- Sở duyên duyên [Điều kiện có đối tượng]
Điều kiện thứ ba là sở duyên duyên, sở duyên duyên chính là đối tượng, khi bạn nhìn vào một chiếc xe, nhãn thức của bạn xuất phát từ chiếc xe, là kết quả của chiếc xe. Chiếc xe xuất hiện trước tiên và do có chiếc xe giúp cho nhãn thức của bạn khởi phát. Vì vậy, đó cũng là một điều kiện, đối tượng mà mắt bạn nhìn thấy là sở duyên duyên.
- Tăng thượng duyên [Điều kiện ưu thế]
Điều kiện thứ 4 là tăng thượng duyên [tăng: thêm, thượng: nổi lên], đây là một điều kiện thú vị. Tăng thượng duyên là cái mà chúng ta gọi là nhãn lực, vậy nhãn lực có hình tướng [sắc], nhãn lực không phải là vô hình tướng, nhãn lực là sắc và nhãn lực không phải là nhãn thức, nhãn lực là thứ phải có trước nhãn thức, để tôi cho bạn một ví dụ, khi bạn nhìn vào một chiếc xe, đầu tiên, chiếc xe trình hiện đối với nhãn lực, lúc đó bạn không nhìn thấy chiếc xe.
Khi bạn mở mí mắt lên, khi bạn nhìn vào chiếc xe, thì chiếc xe đầu tiên trình hiện đối với nhãn lực và ở đây, nhãn lực cũng hoạt động như một tấm gương, nên giống như khi bạn đang lái xe để xem có chiếc xe hơi phía sau hay xe tải phía sau bạn hay không. Bạn nhìn vào gương ở bên cạnh cửa xe của bạn, vì vậy bạn có thể nhìn thấy những gì phía sau, bạn có thể nhìn thấy nếu có xe tải phía sau bạn hay không trong cái gương ở phía trước bạn, vì vậy nhãn lực giống như gương đó bởi vì qua tấm gương mà bạn có thể nhìn thấy chiếc xe tải phía sau.
Tương tự như vậy qua nhãn lực, bạn có thể nhìn thấy chiếc xe bằng nhãn thức. Cho nên nhãn thức của bạn giống như bạn, nhãn lực giống như chiếc gương đó và chiếc xe đó giống như chiếc xe tải. Vì vậy, chiếc xe đầu tiên trình hiện đối với nhãn lực của chúng ta, sau đó nhãn lực của chúng ta sẽ giúp nhãn thức của chúng ta nhìn thấy xe tải. Do đó, phải trải qua trình tự đó, đầu tiên, hình ảnh hoặc chiếc xe trình hiện đối với nhãn lực, nhãn lực giống như một hiện tượng rất vi tế, rất vi tế có nghĩa là ngay cả với kính hiển vi cũng rất khó nhìn thấy, nó rất khó nhìn thấy, đồng thời nó hoạt động như một tấm gương giúp cho nhãn thức nhìn thấy, nếu không có sự trợ giúp của nhãn lực, thì nhãn thức sẽ không thể nhìn thấy. Cho nên, nhãn lực là một điều kiện kiểm soát, đó là lý do tại sao nó được gọi là tăng thượng duyên. Bất cứ thứ gì trình hiện đối với nhãn lực, nhãn thức đều có thể nhìn thấy, nếu sự vật không trình hiện đối với nhãn lực, thì nhãn thức không thể nhìn thấy.
Trong Phật giáo, nhãn lực có thể làm cho ngày càng mạnh hơn, lúc đó bạn có thể nhìn thấy nhiều thứ hơn. Ví dụ, theo quan điểm tâm lý học của Đạo Phật, tôi muốn nói rằng lý do tại sao gián không thể nhìn thấy không gian 3-D là bởi vì nhãn lực của gián không mạnh bằng chúng ta. Lý do tại sao chúng ta không thể nhìn thấy nhiều hiện tượng là bởi vì nhãn lực của chúng ta phải được tăng cường, nếu sự vật trình hiện đối với nhãn lực, thì nhãn thức có thể nhìn thấy.
Có rất nhiều thiền giả thông qua thiền định họ tăng cường, họ làm cho nhãn lực mạnh hơn. Đó là khi họ nhìn thấy các linh hồn; đó là khi họ nhìn thấy rất nhiều thứ mà mắt thường của chúng ta không thể nhìn thấy được; đó là khi họ nhìn thấy rất nhiều hiện tượng vi tế; đó là khi họ nhìn thấy những thứ phía sau ngọn núi. Và kế đó là nhĩ lực, nên khi họ làm cho nhĩ lực mạnh lên, họ có thể nghe cách xa hàng dặm. Vì vậy, một số thiền giả trên núi họ tăng cường sức mạnh của nhĩ lực để họ có thể nghe giảng mặc dù người đó cách xa như 500 dặm. Họ đang thiền định trong một hang động, họ không thể tham dự các buổi giảng dạy của các vị thầy trên thế giới này, vì vậy khi họ muốn nghe những giáo lý khác nhau, họ chỉ cần cải thiện điều đó. Do đó, nhờ nhãn lực này, nếu ai đó chết và sau đó được sinh ra ở một nơi nào đó, nếu đó là vị đạo sư của bạn hoặc học trò của bạn, nếu bạn muốn có mối tương quan tiếp tục với đạo sư hoặc một học trò vừa mới qua đời, nếu bạn muốn nhìn thấy nơi người đó tái sinh, bạn sử dụng nhãn lực, nếu bạn có nhãn lực rất mạnh thì bạn có thể nhìn thấy bằng nhãn lực đó nơi người đó sinh ra và nơi này, nơi kia. Vì vậy, các thiền giả sử dụng những lực đặc biệt đó bằng cách tăng cường nhãn lực và nhĩ lực như thế. Cho nên, cơ bản đây là tăng thượng duyên.
Tôi sẽ nhắc lại một lần nữa, vậy điều kiện đầu tiên là nhân duyên đó chính là nghiệp, điều kiện thứ hai là thứ đệ duyên, là tâm thức kích hoạt điều kiện [pratya,skt.duyên] đối với nhãn thức, ngay trước nhãn thức, sở duyên duyên chính là đối tượng và kế đó là tăng thượng duyên là nhãn lực. Tương tự như vậy có nhãn lực, có nhĩ lực, có tỵ lực, có thiệt lực và có căn lực và ý lực. Các lực đó trợ giúp – nhĩ lực trợ giúp nhĩ thức, thiệt lực trợ giúp thiệt thức, khứu giác trợ giúp tỵ thức hoặc tâm thức nhận ra mùi, thân lực trợ giúp thân thức – để nhận biết sự vật hiện tượng.