Bảy Phân Loại của Tâm
Bảy tâm nhận thức và giác tri mà chúng ta sẽ trải qua là ‘hiện lượng’ [giác tri xác thực trực tiếp], lần trước tôi đã nói về các ‘hiện tiền’ [tâm nhận biết trực tiếp], tôi đã nói về sáu loại tâm hiện tiền, năm căn thức, và kế đó là ý hiện tiền, nên tâm hiện tiền không nhất thiết phải là một tâm xác thực. Đầu tiên tôi sẽ giải thích thế nào là ‘lượng’ [giác tri xác thực] và ‘tái quyết tri’ [giác tri tiếp theo sau] là gì, điều này thực sự dễ dàng, hãy bình tĩnh, đây là điều mà chúng ta trải nghiệm hàng ngày. Thường bạn nói rằng “Ồ, đến bảy loại hoặc lần trước đã là bốn loại và thực không dễ gì, hôm nay đến bảy loại, sẽ thực sự khó “. Thật ra là dễ!
Về cơ bản bảy loại là: ba tâm đầu tiên là hiện lượng [giác tri xác thực trực tiếp], tỷ lượng [giác tri xác thực bằng luận đoán] và tái quyết tri [giác tri tiếp theo sau] – Ba giác tri này, tâm thứ nhất, thứ hai và thứ ba đều là tâm chứng được đối tượng, biết đối tượng của nó – bốn tâm còn lại không nhận ra đối tượng của nó, ví dụ, sự nghi ngờ không biết đối tượng của nó, nhầm lẫn về đối tượng. Vì vậy, ba tâm đầu tiên chứng được đối tượng của nó, bốn tâm còn lại không chứng được đối tượng của nó. Rất đơn giản!
Ba giác tri đầu tiên chứng được đối tượng: hiện lượng, tỷ lượng và tái quyết tri.
Trong số ba giác tri đầu tiên, để chứng được đối tượng, thì hai tâm thức đầu tiên là ‘lượng’ và tâm thức thứ ba là ‘tái quyết tri’, ‘tái’ có nghĩa là tâm thức thứ ba là khoảnh khắc sau của hai tâm thức đầu tiên.
Khi bạn nhìn vào chiếc xe, nhãn thức của bạn sẽ chứng được chiếc xe. Khoảnh khắc [sát na] đầu tiên nó nhận ra bởi chính nó mà không phụ thuộc vào các tâm thức khác hoặc bất kỳ tâm thức nào trước đó. Nhờ lực riêng của mình, nó chứng được chiếc xe. Bạn nhìn vào chiếc xe, bạn nhận ra chiếc xe và khoảnh khắc thứ hai dựa vào khoảnh khắc đầu tiên của nhãn thức. Khoảnh khắc đầu tiên, tâm rất rõ ràng, đồng thời, khoảnh khắc đầu tiên như là nó tự dùng năng lượng riêng của nó hoặc bằng lực riêng của nó. Khoảnh khắc thứ hai của nhãn thức trở thành ‘tái quyết tri’. Vì vậy, một tâm thức mới, không nhầm lẫn thật sự là định nghĩa của ‘lượng’. Tâm thức thứ nhất và thứ hai là lượng, nó phải là mới, điều này có nghĩa là nó không bị cảm ứng bởi một số các ‘lượng’ khác. Nó phải là mới, mới chứng được cái gì đó. Khoảnh khắc thứ hai của tâm này trở thành tái quyết tri [giác tri tiếp theo sau].
Vì vậy hai tâm đầu tiên: tâm thứ nhất là ‘hiện lượng’, có nghĩa là nó chứng được đối tượng một cách trực tiếp như mắt-xe hơi; tâm thứ hai là ‘tỷ lượng’. Tỷ lượng như là bạn không trực tiếp nhận ra đối tượng, mà bạn nhận ra điều gì đó bằng cách suy nghĩ lý lẽ. Bạn nhìn vào chiếc xe và bạn nhận ra chiếc xe đó, bạn không cần phải suy nghĩ về bất kỳ lý lẽ nào. Một trong những ví dụ phổ biến là: giả sử có một ngọn núi, và có một khu rừng phía sau ngọn núi mà bạn biết, nhưng bạn đang ở bên này của ngọn núi, và sau đó bạn có thể thấy một làn khói lớn bốc lên từ ngọn núi, phía bên kia ngọn núi, từ phần bên kia của ngọn núi một làn khói lớn bốc lên. Bạn nhận ra điều gì? Rằng có thể có lửa, rừng gây ra cháy. Qua dấu hiệu hoặc qua lý lẽ có nhiều khói bốc lên có nghĩa là đám cháy đang diễn ra mặc dù mắt bạn không nhìn thấy ngọn lửa. Bạn chỉ biết qua suy nghĩ lý lẽ “OK, có đám cháy vì tôi có thể nhìn thấy khói”. Vì vậy, bạn nhận ra rằng khu rừng gây ra hỏa hoạn, đó là ‘tỷ độ’ [giác tri bằng luận đoán]. Vì vậy, sát na đầu tiên của tâm đó cũng là một ‘lượng’ và sát na thứ hai của tâm đó là một ‘tái quyết tri’.
Tóm lại.
Vậy, tôi sẽ lặp lại tâm thứ nhất, thứ hai và thứ ba, đó là những tâm thức chứng được đối tượng. Tâm đầu tiên là ‘hiện lượng’ biết đối tượng của nó một cách trực tiếp mà không cần suy nghĩ bất kỳ lý lẽ nào, chúng ta chỉ nhận ra nó một cách trực tiếp. Tâm thứ hai là ‘tỷ lượng’ phải dựa vào một số lý lẽ và qua tâm của bạn, tâm thứ hai không thể là nhãn thức của bạn, tâm thứ hai không thể là bất kỳ tâm của năm giác quan. ‘Tỷ độ’ không thể là tỵ thức hoặc thiệt thức hoặc nhĩ thức hoặc thân thức của bạn. Nó phải là ý thức bởi vì bạn đang suy nghĩ, rồi bạn đang nhận ra “Ồ, phải có lửa”. Vì vậy mà mắt của bạn không thể suy nghĩ, tai của bạn không thể suy nghĩ, cho nên đó là lý do tại sao năm căn thức thường được gọi là tâm thức ngu ngốc, bởi vì năm căn thức không thể tự mình suy nghĩ.
Vì vậy, ba thức đầu tiên chứng được đối tượng. Tôi lặp lại một lần nữa, ‘hiện lượng’ như là nhãn thức mới nhận ra đối tượng, nhĩ thức mới nhận ra và ý thức cũng mới nhận ra đối tượng giống như một thần thông. Vì vậy, tâm thứ hai cũng là một tâm thức mới tri nhận nhưng thông qua một số lý lẽ và phải có một ý thức. Tâm thứ ba về cơ bản là sát na thứ hai của tâm đầu tiên và của tâm thứ hai, bởi vì hai tâm này phải là mới tri nhận, tâm thức mới nhận ra đối tượng. Do đó, sát na thứ hai của tâm thứ nhất, rồi sát na thứ hai của tâm thứ hai trở thành tâm thứ ba. Và dĩ nhiên, tâm thứ ba là ‘tái quyết tri’ hoặc phải được cảm ứng bởi ‘hiện lượng’ hoặc nó phải được cảm ứng bởi ‘tỷ độ’. OK, ba tâm thức đầu tiên.
Bốn tâm thức còn lại không chứng được đối tượng: tứ sát tri, hiển nhi bất định, tâm nghi, tâm điên đảo.
- Tứ sát tri [tâm thức giả định là đúng].
Bây giờ chúng ta còn lại bốn tâm. Các tâm đầu tiên là khá đơn giản, và bốn tâm còn lại thậm chí còn đơn giản hơn. Vậy, tâm thứ tư là ‘tứ sát tri’, tâm thứ tư về cơ bản phải là một ý thức, một tâm thức tư duy. Đó là ‘một ý nghĩ phân biệt’ không chứng được đối tượng của nó, không nhận ra nhưng cách nó giả định là đúng đắn. Ví dụ, nếu bạn nghĩ rằng “OK, cây cối là vô thường”. Không có cây nào là vĩnh viễn, cây luôn thay đổi, chẳng hạn cây táo không trở thành cây xoài mà cây táo là cây táo nhưng nó thay đổi từng sát na. Luôn luôn có sự thay đổi, vì vậy nếu một người nghĩ rằng cây táo là vĩnh viễn, thì đó không phải là giả định đúng đắn. Đó không phải là ‘tứ sát tri’ nếu tư duy nghĩ một cái gì đó và nếu nó không đúng.
Một ý nghĩ phải là tư tưởng không phải hai phía như là ‘có thể là thường hằng’ hoặc ‘có thể là vô thường’, nếu một tâm thức suy nghĩ như vậy thì nó trở thành ‘tâm nghi’, ‘tứ sát tri’ phải là ý nghĩ phân biệt nghĩ theo một phía rằng “OK cái này là cái kia, cây là vô thường”, nên là ‘tứ sát tri’. Tôi sẽ nói sau về mối liên hệ giữa bảy tâm thức này, nhưng trước tiên chúng ta sẽ chỉ xem xét về cơ bản ý nghĩa của ‘tứ sát tri’ là gì. Nên điều đó khá đơn giản, nó phải là một ý thức, và kế đó nó phải nắm bắt [chấp trì] hoặc nhận biết đối tượng của mình một cách đúng đắn, nhưng nó lại không nhận ra đối tượng của mình, nó chỉ đang giả định. Đó là tâm thức thứ tư.
- Hiển nhi bất định [giác tri mà đối tượng trình hiện không được xác định chắc chắn].
Bây giờ, là tâm thứ năm là ‘hiển nhi bất định’ [giác tri mà đối tượng trình hiện không được xác định chắc chắn, không được nhận ra]. Vậy tâm thứ năm là một tâm thức, đối tượng trình hiện đối với tâm thức nhưng tâm thức lại không thể chứng được đối tượng. Ví dụ, nếu bạn đang nghe một bản nhạc rất hay, sau đó bạn hoàn toàn đắm chìm vào bản nhạc và rồi có người đi lướt qua, giống như người đó đã trình hiện đối với bạn, nhưng bạn lại không thể nhận ra người đó. Nếu có ai hỏi bạn là ai vậy? thì bạn như là “Ồ, tôi có thấy ai đó đi ngang qua, nhưng tôi không chắc đó là ai”. Bạn đang ăn một món ăn rất ngon và rồi có ai đó nói điều gì và bạn thực sự không nghe thấy người đó nói gì cả. Có một giác tri, nhĩ thức trở thành ‘hiển nhi bất định’, có nghĩa là không chứng được, bạn không thể nhận ra.
Đôi khi bạn xem giả sử một bộ phim, bạn đang xem một bộ phim rất hay. Giả định bạn đang xem một bộ phim và rồi bạn đang ăn bắp rang, bạn thực sự thích bộ phim và có bắp rang gần bên và bạn tiếp tục ăn bắp rang và trước khi bộ phim kết thúc, giả sử bắp rang cũng hết và sau đó nếu có ai hỏi bạn chẳng hạn “Bắp rang có vị gì?”. Nếu bạn thực sự bị đắm chìm vào bộ phim, thì đôi khi bạn thậm chí không biết hương vị là gì. Bạn đang ăn bắp rang nhưng bạn bị cuốn vào bộ phim đến nỗi bạn không biết mùi vị của bắp rang là gì? Đó là vị đường caramen hay sô cô la hay là vị mặn hay nó là vị gì?
Nên thiệt thức của bạn trở thành tâm này. Dĩ nhiên, thiệt thức của bạn trở thành giác tri mà đối với giác tri đó đối tượng trình hiện, nếu đó là vị mặn hay đường caramen, sô cô la, bất cứ hương vị nào, thì hương vị đó đã trình hiện đối với thiệt thức của bạn. Nhưng bạn đã không thể nhận ra nó vì bạn đã quá gắn chặt hoặc bạn đã bị cuốn vào bộ phim quá nhiều. Vì vậy, khi đó giác tri đó trở thành ‘hiển nhi bất định’. Đó là tâm thứ năm.
- Tâm nghi
Và tâm thức thứ sáu là tâm nghi. Tâm nghi như trong trường hợp tương tự, giả sử bạn không thích vị mặn, nhưng bạn biết rằng bạn rất thích bắp rang. “Nếu bắp rang có vị mặn, tôi thường không ăn được” thì bây giờ bạn có sự nghi ngờ, có thể đó là vị đường caramen hoặc có thể là vị sô cô la thì bạn có sự nghi ngờ. Sự nghi ngờ thì các bạn ai cũng biết nhưng sự nghi ngờ có tới ba loại:
- Hợp nghĩa nghi [nghi ngờ có xu hướng hướng tới đúng đắn, sự kiện thật];
- Bất hợp nghĩa nghi [nghi ngờ có xu hướng hướng tới sự giả dối (sự kiện không thật)]và
- Đẳng phần nghi [nghi ngờ bằng nhau].
Giống như nếu bạn nghĩ rằng có người từ một quốc gia nào khác không thực sự chắc chắn liệu Biden có phải là Tổng thống của Hoa Kỳ hay không nhưng anh ta nghĩ rằng có thể Biden là tổng thống hoặc có thể Biden không phải là tổng thống, thì đó là ‘đẳng phần nghi’. Sự nghi ngờ này có vẻ bằng nhau, có thể có, có thể không, như nhau. Nếu một người có sự nghi ngờ nhưng người đó nghĩ rằng “Có thể Biden là tổng thống hoặc không là tổng thống?”, Nhưng sau đó anh ta nghĩ rằng “Có thể ông ấy là tổng thống”, thì đó là ‘hợp nghĩa nghi’. Nếu bạn nghĩ rằng “Có thể ông ấy không phải là tổng thống”, thì đây là một nghi ngờ, nhưng có thể ông ấy không phải, thì điều đó là ‘bất hợp nghĩa nghi’.
Điều này rất quan trọng, ý tôi là tôi thực sự nghĩ nó rất quan trọng vì chẳng hạn “có thể có” và đúng là có một sự khác biệt rất lớn. Nhiều người đưa ra kết luận trên “có thể có”, nhiều người đưa ra kết luận dựa trên “có thể không”, dù cho ‘có thể có’ hoặc ‘có thể không’, nó có thể nghĩa là nghi ngờ, có nghĩa là không nhận ra và khi đó tâm thức đó không đáng tin cậy. Ngay cả khi bạn nghe thấy mọi người nói chuyện, ngay cả trong những bộ phim mới nhất hay ở bất cứ đâu, thậm chí là trong cuộc sống thực, thì ‘có lẽ là điều đó’. Và tôi cũng thấy rằng mọi người đang đặt cược dựa trên ‘có thể có’, điều này thực sự tức cười. ‘Có thể có’ đó là một sự nghi ngờ, ‘tâm nghi’, và ‘tâm nghi’ không đáng tin cậy, ‘có thể có’ có thể là bất hợp nghĩa nghi, có thể là hợp nghĩa nghi. Nếu bạn so sánh “có thể có” và ‘tỷ độ’ [giác tri bằng luận đoán], thì ‘tỷ độ’ là một ‘lượng’. Vì vậy, thay vì dựa vào ‘có thể có’ hoặc ‘có thể không’, quan trọng là phải nghĩ về lý lẽ, dựa vào bộ não, cố gắng suy nghĩ, cố gắng phân tích. Dù sao thì ‘tâm nghi’ là tâm thứ sáu.
- Tâm điên đảo [tâm sai lầm/sai trái]
Tâm thức thứ bảy là ‘tâm điên đảo’. Vì vậy, tâm điên đảo là một tâm thức nắm bắt đối tượng mà đối tượng đó không tồn tại. “Ồ, tôi thấy ma!”, ma tồn tại, tâm đó không sao cả, nếu ma không tồn tại ở đó, thì đó là ‘tâm điên đảo’. Ngay cả một tâm thức nghĩ rằng có thể Biden không phải là tổng thống cũng là một ‘tâm điên đảo’, bởi vì ông ta là tổng thống. Bạn gặp một người lạ nào đó, và bình thường chúng ta đã quá quen với việc đưa ra kết luận, đây là tâm của chúng ta, bởi vì tâm thức của chúng ta đã quá quen với điều đó. Như tôi đã nói trước đó trong một số buổi học rằng tâm của chúng ta không thể tập trung vào một chủ đề trong một thời gian dài, nó có thể tập trung trong thời gian rất ngắn, vì vậy khi nói chuyện với ai đó bạn thường bỏ lỡ nhiều thứ, nhưng bạn luôn điền vào điều gì đó bằng chính tâm của mình. Khi chúng ta lắng nghe một điều gì và sau đó chúng ta nghĩ rằng “Ồ đó là điều đó, có thứ đó”, nhưng thường thì những gì chúng ta nghĩ và những suy nghĩ đó có thể là một ‘tâm điên đảo’.
Cho nên điều rất quan trọng là phải suy nghĩ lại, dù cho bạn nghĩ đó là điều bạn biết hoặc bạn đã nghe, nhưng nếu điều đó quan trọng thì bạn nên và phải xác nhận lại. Bởi vì tâm của chúng ta đã quá quen đưa ra kết luận rất dễ dàng. Nói chung, khi một người gặp một người nữa, “Ồ, anh ta có thể là người xấu, ồ anh ta có thể là người này, anh ta có thể là người kia, v.v.”, chúng ta thường đưa ra kết luận như thể chúng ta là Phật, như thể chúng ta biết tất cả mọi thứ. Nhiều người dựa trên những cảm tính, bạn gặp ai đó “Tôi cảm thấy điều đó” sau đó bạn đưa ra kết luận chẳng hạn hoặc người đó tốt hoặc người xấu.
Một trong những lợi thế đối với một thầy tu là mọi người nói chung đều nghĩ rằng “Ồ ông ấy là một nhà sư, đó phải là một người rất tốt” và nếu một người luộm thuộm trong một khung cảnh hoạt động như vậy, thì một kết luận ngay lập tức như “Ồ hắn ta có thể rất xấu hoặc hắn ta là một kẻ ăn xin hoặc hắn ta phải là một tên trộm ”. Những kết luận như vậy dựa trên cảm tính thường là ‘tâm điên đảo’.